“Trường An 12 canh giờ” kể lại Trường An 24 giờ chuyện xưa. Từ Thiên Bảo tam tái tháng giêng mười bốn tị chính bắt đầu, đến tháng giêng mười lăm tị chính kết thúc. Chuyện xưa mỗi một tập vì nửa canh giờ. Mỗi tập mở đầu đều sẽ lấy đồng hồ mặt trời báo giờ. Nửa canh giờ tương đương hiện tại một giờ đồng hồ. Vậy, lý do gì “Trường An 12 canh giờ” phải dùng nhiều cách thức xác định thời gian? Hãy cùng Future House đi tìm câu trả lời qua các thông tin được chọn lọc và tổng hợp dưới đây, bạn nhé~!
Xem thêm:
Đồng hồ mặt trời cùng “Nhật Quỹ”
Không có đồng hồ treo tường, người cổ đại làm cách nào “tính” thời gian?
Đồng hồ kỹ thuật số 3D dựa trên nguyên lý hoạt động của bóng mặt trời?
ĐỒNG HỒ MẶT TRỜI.
Trên thực tế, ngay từ thời nhà Chu, người dân bắt đầu sử dụng đồng hồ mặt trời. Tính ra, công cụ đếm thời gian này có niên đại hơn 3.000 năm. Có thể bạn muốn hỏi, đồng hồ mặt trời là gì, khái niệm chính xác về nó ra sao? Khái niệm về thời gian sớm nhất của con người là mặt trời, mặt trời mọc và tái diễn.
Theo các góc vị trí khác nhau, đồng hồ mặt trời được chia thành ba loại. Đồng hồ mặt trời ngang, dọc và xích đạo. Đồng hồ mặt trời xích đạo được đặt song song với đường xích đạo. Đầu trên của kim chỉ vào cực bắc và đầu dưới chỉ vào cực nam. Thời gian được đo bằng phép chiếu ánh sáng mặt trời. Điều đó có nghĩa là, bóng của kim được chiếu sáng bởi mặt trời vào ban ngày. Bóng mặt trời thay đổi chuyển động của nó. Và thời gian hiện tại có thể được đọc bằng cách so sánh tỷ lệ trên khay.
Mặc dù đồng hồ mặt trời rất đơn giản và đáng tin cậy, nhưng nó có hai nhược điểm lớn. Một là góc giữa kim và mặt phẳng phải giống như vĩ độ địa lý địa phương. Nên chỉ chính xác đến Sao Bắc Đẩu. Thứ hai, đồng hồ mặt trời phụ thuộc vào ánh nắng mặt trời. Nếu trời nhiều mây hoặc tối, thì đồng hồ mặt trời có vẻ “không hiệu nghiệm”.
Vì vậy, có các công cụ thời gian quan trọng khác.
Đó là đồng hồ nước và đồng hồ “lửa” còn được gọi là “Thủy Chung” và “Hỏa Chung”.
Đồng hồ nước là dựa vào lợi dụng đặc thù vật chứa ký lục đem thủy lậu xong thời gian.
Hỏa chung là lợi dụng hương nến thiêu đốt tốc độ. Thiêu đốt đến cố định vị trí lục lạc liền sẽ rơi xuống phát ra tiếng vang. Do đó đạt tới tính giờ hiệu quả.
Mặc dù các loại đồng hồ được đề cập trong “Mười hai giờ” có thể ghi lại thời gian. Nhưng có giới hạn ít nhiều và mức độ can thiệp từ bên ngoài là tương đối lớn.
Cho đến năm 1583, Galileo đã phát hiện ra dao động của con lắc. Từ đó đặt nền tảng cho sự ra đời và phát triển của những chiếc đồng hồ hiện đại. Năm 1656, nhà khoa học người Hà Lan Huygens đã áp dụng lý thuyết về Galileo để thiết kế con lắc. Năm thứ hai, dưới sự hướng dẫn của Huygens, người thợ đồng hồ trẻ tuổi S.Coster đã làm đồng hồ quả lắc đầu tiên.
Ngày nay, đồng hồ đã trở thành một công cụ chấm công không thể thiếu đối với con người. Đồng hồ chủng loại cực kỳ đa dạng,. Chẳng hạn như đồng hồ báo thức, đồng hồ, đồng hồ treo tường, đồng hồ nam, đồng hồ nữ, đồng hồ mạ vàng,…..